II - Các cổ vật quan trọng trong khu di tích Gò Tháp Gò_Tháp

Hiện vật trong di tích kiến trúc và mộ táng vô cùng phong phú về chất liệu, độc đáo về loại hình và kiểu dáng, những hiện vật quý gồm có nhóm các chế tác bằng vàng, nhóm các pho tượng bằng gổ và 2 bia đá có minh văn.

Nhóm hiện vật vàng ở Gò Tháp có đến 321 mảnh, chạm khắc hình tượng các vị thần, linh vật, hoa văn…Từ các cứ liệu C14, văn khắc từ những mảnh vàng này đã cho biết niên đại của chúng không đồng nhất, thể hiện ảnh hưởng từ nền văn hóa Ấn Độ trong thời gian khá dài, từ Thế kỷ IV - V trước Công nguyên cho đến Thế kỷ V sau CN.

Khu di tích Gò Tháp nổi tiếng với các pho tượng Phật bằng gỗ - di vật đặc trưng của nghệ thuật Phật giáo trong văn hóa Óc Eo. Tuy phần lớn tượng Phật gỗ được phát hiện ngẫu nhiên trong khi đào đìa, làm ruộng nhưng số lượng lớn, sự phong phú và đa dạng về kích thước và kiểu dáng vừa phản ánh sự tiếp thu các ảnh hưởng của nghệ thuật mới, vừa bộc lộ nét bản địa chân chất, giản dị trong chất liệu tạc tượng là nguồn nguyên liệu gỗ dồi dào tại chỗ. Chất liệu gỗ mù u làm nên các pho tượng này vừa bền vững đồng thời vẫn thỏa mãn được sự sáng tạo, tính đa dạng của nghệ nhân Óc Eo, tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo ở đây. Thế kỷ V-VII là thời kỳ phát triển rực rỡ của điêu khắc Phật giáo bản địa mà sưu tập tượng Phật bằng gỗ ở vùng Đồng Tháp là một minh chứng.

Cho đến nay trong số các bia đá mang nội dung phản ánh về vương quốc Phù Nam có 1 tấm bia (ký hiệu K5) tìm thấy ở khu di tích Gò Tháp, được các nhà nghiên cứu định niên đại vào thế kỷ V. Nội dung văn bia thấm đượm tinh thần Hindu giáo, Chi phái Visnu là tôn giáo phổ biến song hành cùng Phật giáo trong văn hóa Óc Eo. Quan trọng nhất là văn bia còn cho biết, chính đây là vùng đầm lầy được chinh phục bởi vua Phù Nam Jayavarman và phong cho con trai là Gunavarman cai quản.

Quy mô kiến trúc, nội dung phản ánh của sưu tập di vật và hệ thống đường giao thông thủy trong khu di tích Gò Tháp đã cho thấy, khu vực này từng là một trung tâm tôn giáo - văn hóa quan trọng từ TK IV đến TK VIII, không chỉ của vùng Đồng Tháp Mười mà còn của chung đồng bằng sông Cửu Long.

Cuộc sống của cư dân thời cổ thể hiện rõ nét quá trình thích nghi với môi trường sinh thái tự nhiên. Tính chất thích nghi không chỉ là sự “nương nhờ”, khai thác tự nhiên một cách thuần tuý mà còn là quá trình tạo nên môi trường sinh thái nhân văn - cảnh quan lao động sản xuất, nơi cư trú, các công trình kiến trúc…

Khảo cổ học dựa vào những di tích di vật phát hiện được để nghiên cứu về đời sống con người trong quá khứ, tất nhiên, chỉ hiểu biết được một phần vì những gì còn lại cũng vô cùng ít ỏi. So với nhiều di tích khảo cổ, khu di tích Gò Tháp là nơi phát hiện một số lượng lớn di vật nhiều loại hình, từ vật dụng sinh hoạt trong di chỉ cư trú đến vật dâng cúng quý giá trong các đền tháp, vật tùy táng linh thiêng trong những ngôi mộ, từ các phế tích kiến trúc đền tháp và tượng thờ, minh văn đến di tích nhà ở, nền bếp…

Tổng thể di tích và di vật phản ánh quá trình tụ cư, hoạt động kinh tế - văn hóa - tôn giáo và các mối quan hệ giao lưu trong một thời gian dài khoảng 10 thế kỷ. “May mắn” là môi trường tự nhiên và nhân văn của khu di tích này (và nhiều di tích văn hóa Óc Eo khác) vẫn chưa biến đổi nhiều so với trước kia. Điều đó giúp ta hình dung được phần nào cuộc sống của chủ nhân những di tích và di vật nơi đây. Trong môi trường sinh thái “bưng biền Đồng Tháp” cư dân cổ đã xây dựng cảnh quan nhân văn gồm các kiến trúc đền thờ, tháp mộ trên các gò phù sa cổ (có khi được con người đắp cao thêm), xây dựng nhà sàn cư trú ở địa hình thấp xung quanh… Họ khai thác nhiều loại động - thực vật nơi đầm lầy đìa trũng để sinh sống, trong đó có lúa ma hay lúa trời - loại lúa hoang dại có thể cao đến 1,5m, nổi trên mặt nước vào mùa nước, rồi dần dần “cải tạo” vùng đất trũng lầy để trồng lúa - có lẽ là theo lối sạ lúa một vụ năng xuất không cao, giống như lối canh tác của cư dân Đồng Tháp Mười cho đến gần đây. Quá trình này để lại dấu tích cư trú ở đây trong một thời gian rất dài, từ đầu Công nguyên đến khoảng thế kỷ XII - XIII. Không chỉ vậy, khu vực Gò Tháp còn gắn liền với cảng thị Óc Eo - Ba Thê và trở thành một trung tâm lớn thể hiện sự gắn bó giữa đời sống xã hội và sự phát triển của tôn giáo: từ một vài di tích quy mô không lớn, xây dựng đơn giản vào đầu Công nguyên đã phát triển đến đỉnh cao của kiến trúc và điêu khác Hindu giáo và Phật giáo vào thế kỷ VI - VIII.